SKKN: ỨNG DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI – THÍ NGHIỆM TRONG HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI

Tháng Ba 23, 2017 9:24 sáng

 ỨNG DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI – THÍ NGHIỆM TRONG HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI

(Người viết: Vũ Thị Bích Huệ)

  1. PHẦN MỞ ĐẦU
  2. Lý do chọn đề tài:

Tổ chức cho trẻ hoạt động khám phá môi trường xung quanh từ lâu đã được đưa vào chương trình Giáo dục Mầm non. Trong thực tế, các giáo viên Mầm non đã rất quan tâm, đã biết cách tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động khám phá và đạt được một số hiệu quả nhất định. Đó là trẻ đã có những kiến thức, hiểu biết về một số sự vật, hiện tượng xung quanh như biết tên gọi, đặc điểm, lợi ích của các sự vật, hiện tượng, thông qua đó cũng đã hình thành cho trẻ một số kĩ năng nhằm phát triển toàn diện cho trẻ. Thực tiễn đổi mới giáo dục mầm non hiện nay cũng cho thấy, trò chơi, thí nghiệm đơn giản đã dần được sử dụng như một phương pháp, phương tiện hữu hiệu trong quá trình tổ chức cho trẻ khám phá, tìm hiểu môi trường xung quanh . Nhưng thực tế cũng tồn tại một vấn đề khác, đó là các giáo viên thường rất ngại việc tổ chức hoạt động khám phá cho trẻ, nhiều giáo viên chỉ nghĩ đơn thuần các hoạt động khám phá chỉ tổ chức trong giờ hoạt động chung và rất khó khăn trong việc tìm các hoạt động phù hợp để trẻ tích cực khám phá và lĩnh hội kiến thức. Số lượng trò chơi chưa nhiều, nội dung nghèo nàn, ít hấp dẫn đối với trẻ, các trò chơi, thí nghiệm lại được thiết kế sẵn mang nhiều tính khuôn phép. Giáo viên mới sử dụng các trò chơi ít ỏi trên “tiết học”, trẻ ít được tổ chức làm thí nghiệm. Giáo viên còn lúng túng trong việc thiết kế và sử dung trò chơi, thí nghiệm linh hoạt, mang tính phát triển, phù hợp với đặc điểm cá nhân trẻ và điều kiện thực tiễn của trường lớp, địa phương. Từ đó dẫn tới các kiến thức của trẻ nắm bắt được chưa chắc chắn, trẻ hay quên, hay nhầm lẫn giữa các sự vật, hiện tượng, các kĩ năng của trẻ chưa được rèn luyện dẫn tới hiệu quả giáo dục chưa cao. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta chưa hình thành được một thói quen chủ động, thích tự trải nghiệm, tự khám phá về thế giới xung quanh. Thói quen ấy lúc này đây chỉ là sợi tơ nhện nhưng mai này nó sẽ là sợi dây cáp của cuộc đời, sẽ là “cây đời” để mỗi người sáng tạo, đi tìm chân lí. Đứng trước vấn đề trên, là một giáo viên Mầm non đang công tác trong ngành giáo dục, tôi đã đúc kết để thiết kế, sưu tầm và ứng dụng một số trò chơi, thí nghiệm trong hoạt động khám phá của trẻ Mẫu giáo lớn. Các trò chơi, thí nghiệm này đã được tiến hành ở lớp Lá 3, trường mẫu giáo Hoa Anh Đào và thu được những kết quả đáng kể. Sau đây tôi xin trình bày kinh nghiệm của mình với đề tài:

“Ứng dụng 1 số trò chơi, thí nghiệm trong hoạt động khám phá cho trẻ 5-6 tuổi”

  1. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu:

Nghiên cứu về ứng dụng 1 số trò chơi, thí nghiệm trong hoạt động khám phá cho trẻ 5-6 tuổi tại lớp Lá 3 trường Mẫu giáo Hoa Anh Đào xã Lạc An.

  • Mục đích của đề tài:

Nhằm tìm ra “những trò chơi, thí nghiệm ứng dụng trong hoạt động khám phá” để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, khám phá về thế giới xung quanh. Khi trẻ được làm quen với thế giới xung quanh sẽ giúp trẻ tích lũy được kiến thức, kĩ năng về tự nhiên và xã hội, giúp trẻ được phát triển về các mặt: nhận thức – ngôn ngữ – thể chất – tình cảm – thẩm mỹ. Thông qua việc tổ chức cho trẻ được hoạt động khám phá, trẻ sẽ được phát triển toàn diện nhân cách được hình thành và phát triển. Đây là mục đích hàng đầu của giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng.

  1. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:

Tác động vào nhận thức của giáo viên để tìm tòi, sáng tạo ra những trò chơi, thí nghiệm mới, thu hút trong hoạt động khám phá.

  1. PHẦN NỘI DUNG
  2. Cơ sở lý luận của đề tài:
  3. Khái niệm:

Trò chơi là gì? Thí nghiệm là gì ? Hoạt động khám phá là gì ?

  • Trò chơi là một hình thức đặc thù độc đáo của trẻ em để thực hiện tác động tương hỗ giữa chủ thể với môi trường xung quanh (trẻ em nhận thức thế giới thông qua trò chơi).
  • Trò chơi là một phương pháp giáo dục thực hành hiệu nghiệm nhất đối với việc hình thành nhân cách, trí lực của trẻ em.
  • Thí nghiệm là quá trình tổ chức cho trẻ họat động thực tiễn tạo ra một kết quả nào đó nhằm kiểm tra những thuộc tính của sự vật, hiện tượng xung quanh.
  • Hoạt động khám phá là phát minh, hay khám phá, phát hiện là việc tìm ra những gì tồn tại trong tự nhiên hoặc xã hội một cách khách quan mà trước đó chưa ai biết, nhờ đó làm thay đổi cơ bản nhận thức con người.
  1. Đặc điểm của trò chơi, thí nghiệm trong hoạt động khám phá:

Các trò chơi, thí nghiệm phải hấp dẫn, thu hút trẻ, phù hợp nhận thức của trẻ. Lựa chọn và tổ chức 1 số trò chơi thực nghiệm nhằm giúp trẻ mẫu giáo vừa nắm được kiến thức, vừa hình thành và rèn luyện những kĩ năng cần thiết của môn học khám phá và phát huy được tính độc lập sáng tạo của trẻ.

  1. Thực trạng vấn đề:

– Trò chơi học tập và thí nghiệm về môi trường xung quanh cần được thiết kế hướng tới thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non nói chung, mục tiêu trẻ Mẫu giáo lớn hoạt động khám phá nói riêng. Vì vậy, các yếu tố của trò chơi học tập và các thí nghiệm hoạt động khám phá cần hướng và làm giàu biểu tượng về sự vật, hiện tượng, phát triển kĩ năng nhận thức và hành động, giáo dục trẻ có thái độ đúng đắn với môi trường xung quanh.

– Một số giáo viên chưa mạnh dạn trong việc tổ chức các hoạt động khám phá.

– Môi trường và các đồ dùng, đồ chơi chưa mang tính động để gây hứng thú cho trẻ và kích thích trẻ tìm tòi, khám phá

– Phương pháp mà giáo viên sử dụng để tổ chức cho trẻ khám phá khoa học chủ yếu là phương pháp trực quan và dùng lời nên việc truyền thụ những kiến thức khoa học trừu tượng  cho trẻ gặp nhiều khó khăn.

– Với trò chơi học tập cần đảm bảo cho trẻ được vui chơi vui vẻ, tự do, tự nguyện. Cần theo hướng mở đáp ứng các mức độ nhận thức khác nhau của trẻ.

– Với các thí nghiệm phải dễ thực hiện, không đòi hỏi các điều kiện đặc biệt, cần tiến hành trong khoảng thời gian nhất định, không kéo dài quá lâu sẽ làm trẻ  quên mất những gì xảy ra ban đầu.

– Nhận thức của trẻ không đồng đều.

– Một số đồ dùng đồ chơi để tổ chức cho trẻ chơi, thí nghiệm khám phá môi trường xung quanh còn ít và đơn điệu.

  • Các biện pháp:

Để các kiến thức về môi trường xung quanh và sự ham thích khám phá đến với trẻ một cách tự nhiên, tôi đã triển khai song song và đồng bộ những biện pháp sau:

  1. Biện pháp 1: Thiết kế và sưu tầm 1 số trò chơi học tập nhằm tạo hứng thú cho trẻ hoạt động khám phá.

1.1 Trò chơi 1: Cây này thiếu gì?

* Mục đích

– Củng cố biểu tượng của trẻ về các bộ phận của cây.

– Rèn luyện kĩ năng vẽ, tô màu cho trẻ.

* Chuẩn bị

 – Các bức tranh vẽ mô hình cây thiếu một hoặc một số bộ phận .

– Bút chì hoặc bút sáp màu.

* Cách chơi : Chơi theo nhóm, cả lớp hoặc cá nhân

– Cách 1: tranh vẽ cây còn thiếu các bộ phận và các bộ phận của cây được vẽ rời. Trẻ xem tranh và nối tranh cây với bộ phận còn thiếu đúng vị trí của bộ phận trên cây. Sau đó, trẻ có thể tô màu bức tranh vẽ cây.

 – Cách 2: Tranh vẽ cây còn thiếu các bộ phận. Trẻ quan sát, phát hiện bộ phận còn thiếu của cây. Trẻ vẽ (hoặc cắt, dán) thêm các bộ phận thiếu. Tô màu và vẽ thêm các chi tiết khác để tạo ra bức tranh đẹp.

1.2. Trò chơi 2: Tìm lá cho cây

* Mục đích:

Trẻ nhận biết và phân biệt được các loại lá cây. Qua trò chơi này, có thể kết hợp cho trẻ lao động nhặt lá rụng.

* Chuẩn bị : 4 thùng các tông

* Cách chơi : Chơi theo tổ. Cô chia lớp thành 3 hoặc 4 tổ, mỗi tổ sẽ nhặt một loại lá cây rụng ở sân trường theo yêu cầu của cô trong một khoảng thời gian nhất định. Khi hết thời gian, cô giáo cùng các bạn trong lớp kiểm tra kết quả của từng đội. Đội nào nhặt đúng sẽ chiến thắng (với trò chơi này thì chỉ cần nhặt đúng, không tính đến số lượng).

1.3. Trò chơi 3: Cây cần gì để sống

* Mục đích:

– Củng cố hiểu biết của trẻ về các nhu cầu cần thiết để cây lớn lên và phát triển.

– Phát triển phản xạ nhanh, nhạy ở trẻ

* Chuẩn bị: Tờ giấy to ở giữa có gắn hình cây, xung quanh có các băng dính gai; tranh rời, đằng sau có băng dính (các tranh rời vẽ hình mặt trời, bình tưới nước, phân bón, các hình ảnh con người chăm sóc cây cối…).

* Cách chơi: Chơi theo nhóm hoặc cá nhân. Cô phát cho trẻ (nhóm trẻ) rổ đựng tranh rời. Trẻ chọn các bức tranh mô tả những việc cần làm đối với cây, dán vào các băng dính gai và kể về tranh vừa dính.

1.4. Trò chơi 4: Không cùng loại

* Mục đích: Rèn luyện óc quan sát, sự nhanh nhạy của trẻ. Phát triển khả năng khái quát đơn giản và ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.

* Chuẩn bị: Các bức tranh có hình vẽ hoặc ảnh chụp các đối tượng là rau, hoa, quả.

* Cách chơi: Chơi cá nhân hoặc chơi theo nhóm.

– Cách 1: Cô xếp đối tượng (4 – 5 đối tượng), trong đó có 1đối tượng không cùng nhóm với các đối tượng còn lại. Trẻ phải tìm nhanh đối tượng không cùng nhóm với các đối tượng còn lại và giải thích tại sao lại chọn như thế.

– Cách 2: Tranh vẽ các loại hoa (quả) trong đó có 1đối tượng không cùng loại. Trẻ phải tìm nhanh đối tượng không cùng loại. Trẻ chỉ và gọi tên (hoặc dùng bút chì gạch đối tượng không cùng loại) và giải thích.

1.5. Trò chơi 5: Đây là con gì?

* Mục đích: Củng cố sự nhận biết của trẻ về các con vật thông qua vận động của chúng.

Rèn luyện ở trẻ kĩ năng phân tích và làm việc theo nhóm.

* Chuẩn bị:

 – Trẻ có tâm thế thoải mái.

– Các bông hoa nhỏ bằng giấy hoặc nhựa vơi các màu sắc khác nhau (đỏ, vàng) để tính điểm cho mỗi đôi khi đoán đúng.

* Cách chơi: Cô chia lớp thành 2 đội chơi (mỗi đội khoảng 6-8 trẻ), những trẻ còn lại làm cổ động viên và chơi ở lượt sau. Một đội mô phỏng hành động của con vật, đội kia quan sát và đoán đúng tên con vật mà đội bạn vừa mô phỏng. Đội sau không được mô phỏng và lặp lại hành động của con vật mà đội trước đã mô phỏng. Hai đội phải bốc thăm xem đội nào làm động tác trước và phải có một thời gian để các trẻ trong đội thảo luận đi đến thống nhất xem đội mình mô phỏng con vật nào. Đội bạn sau khi quan sát, cũng cần thảo luận để đưa ra câu trả lời chính xác.

1.6. Trò chơi 6: Nói ngược

* Mục đích: – Cùng cố hiểu biết về đặc điểm của các con vật.

– Giúp phát triển từ trái nghĩa, phát triển tư duy cho trẻ.

 * Chuẩn bị: Tranh vẽ các con vật (nếu trẻ chơi thành thạo có thể không cần đồ chơi).

* Cách chơi: Chơi theo cá nhân hoặc nhóm. Cô giơ bức tranh và nói tên con vật hoặc bộ phận con vật, trẻ nói từ mô tả đặc điểm ngược lại của con vật. Ví dụ: Con voi – nhỏ bé; Tai thỏ – ngắn;  Đuôi thỏ – dài;  Rùa – nhanh; Sóc – chậm. Khi trẻ chơi thành thạo, cô không cần giơ tranh nữa mà chỉ việc nói tên con vật, trẻ nói đặc điểm. (Có thể cho trẻ đọc bài đồng dao nói ngược trước khi tham gia trò chơi này để gây hứng thú cho trẻ tham gia vào trò chơi.)

1.7. Trò chơi 7 : Tạo nhóm

* Mục đích :

– Củng cố kĩ năng phân nhóm, phân loại đồ vật.

 – Phát triển chức năng kí hiệu tượng trưng.

* Chuẩn bị :

– Tranh lôtô (ảnh) các loại hoa, lá, quả có màu sắc khác nhau.

– 3 rổ có màu xanh, đỏ, vàng (nếu rổ giống nhau có thể dán kí hiệu xanh, đỏ, vàng ở phía ngoài)

* Cách chơi : Chơi theo nhóm hoặc cá nhân.

– Cách 1 : Cô cho trẻ quan sát những thứ đã chuẩn bị và gọi tên những thứ đó. Sau đó, yêu cầu trẻ hãy xếp lá vào rổ màu xanh, hoa vào rổ màu đỏ và quả vào rổ màu vàng.. Trẻ nào (nhóm nào) xếp đúng và xong trước là trẻ đó (nhóm đó) thắng.

– Cách 2 : Nâng cao mức độ khó. Cho trẻ thảo luận để phân nhóm các thứ đã chuẩn bị theo dấu hiệu (màu sắc, hình dạng, chức năng của chúng…) và tự xếp. Cô đến hỏi ý tưởng và giúp trẻ tự kiểm tra, đánh giá kết quả.

1.8. Trò chơi 8 : Ai nhanh hơn

* Mục đích : Rèn luyện óc quan sát, sự nhanh nhạy của trẻ.

 Phát triển khả năng khái quát hóa đơn giả và ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.

* Chuẩn bị : Các bức tranh có hình vẽ hoạc ảnh chụp các đối tượng là rau, hoa, quả.

* Cách chơi : Chơi cá nhân hoặc theo nhóm.

– Cách 1 : Cô xếp đối tượng (4 – 5 đối tượng), trong đó có 1đối tượng không cùng nhóm với đối tượng còn lại. Trẻ phải tìm nhanh các đối tượng không cùng nhóm với các đối tượng cò lại và giải thích tại sao lại chọn như vậy.

– Cách 2 : Tranh vẽ các loại hoa (quả…) trong đó có một đối tượng không cùng loại. Trẻ chỉ và gọi tên (hoặc dùng bút chì không cùng loại) và giải thích.

1.9. Trò chơi 9: Xếp theo thứ tự

* Mục đích : Củng cố hiểu biết của trẻ về quá trình chăm sóc và phát triển của cây, củng cố biểu tượng về số và phép đếm.

 – Phát triển ở trẻ khả năng phán đoán, trí tưởng tượng sáng tạo; phát triển ngôn ngữ mạch lạc.

– Giáo dục trẻ tình cảm xã hội.

* Chuẩn bị : Mỗi đội đều có một bộ tranh nói về quá trình phát triển của các loại cây và chăm sóc cây (ví dụ: tranh gieo hạt, tranh chăm sóc cây, tranh cây ra hoa, kết quả, tranh hái quả, tranh mang quả biếu bà,…).

 – Bộ chữ số 1, 2, 3, 4, 5, 6. – Bảng gài gắn xung quanh lớp.

* Cách chơi :

– Cách 1 : Cô để các bức tranh (gieo hạt, chăm sóc cây, cây ra hoa, cây có quả chín) vào trong một cái rổ. Sau đó, yêu cầu trẻ xếp các bức tranh theo trình tự phát triển của cây.

– Cách 2 : Cô gắn các bức tranh lên bảng không theo thứ tự (theo chiều dọc). Yêu cầu trẻ xếp lại cho đúng thứ tự, tìm số và gắn và bên cạnh theo trình tự phát triển của cây. Khi tất cả các đội thực hiện xong, cô lần lượt cho các đội nói về sự phát triển của cây mình vừa thực hiện. Hai cách này có thể chơi theo nhóm hoặc cá nhân, có thể chơi dưới hình thức thi đua “Thi xem đội nào nhanh” …

– Cách 3 : Nâng cao mứ độ khó của 2 trò chơi trên. Sau khi cho trẻ chơi xếp theo thứ tự, cô tiếp tục cho trẻ chơi TC “Thi xem ai đoán giỏi”. Cô nói với trẻ : “Sau 4 bức tranh này, cô còn có các bức tranh khác nữa. Bây giờ các con hãy suy nghĩ và đoán thử xem đó là bức tranh gì? Các con tự đoán nhưng không được cho bạn biết”. Cô sẽ phát cho mỗi bạn một tờ giấy để con vẽ bức tranh dự đoán của con vào mặt sau tờ giấy. Cô đến và viết ý tưởng của trẻ và mặt sau của tờ giấy. Khi trẻ vẽ xong, cô cho trẻ chia sẻ ý tưởng cho nhau. Cô đưa bức tranh của cô ra : tranh vẽ bé mang quả đến biếu bà, tranh sản phẩm chế biến từ quả. Trẻ nào có ý tưởng hay, cô thưởng 1 quả hoặc 1 kẹo. Sau đó, cô và trẻ tiếp tục chơi “Thi kể chuyện giỏi”. Cô và trẻ cùng xây dựng các câu chuyện dựa vào các bức tranh đã xếp theo thứ tự. Hình thức chơi “Kể chuyện nối tiếp”, trẻ này kể nối tiếp với trẻ kia, cô ghi lại câu chuyện của trẻ.

1.10. Trò chơi 10 : Tháp dinh dưỡng kì diệu

* Mục đích : Trẻ nhận biết các nhóm thực phẩm có lợi cho sức khỏe con người.

– Trau dồi kĩ năng phân loại các nhóm thực phẩm.

* Chuẩn bị : Giấy khổ lớn, giấy A4 một mặt, hộp cát tông, hình minh họa cho 5 nhóm thức ăn: Dầu, mỡ, đường ; Sữa và các chế phẩm từ sữa; Thịt gia súc, gia cầm, đậu và trứng; Rau quả; Gạo và bột mì….trên các tờ tạp chí, báo cũ. Có thể kêu gọi phụ huynh cùng tham gia tìm kiếm, sưu tầm các hình minh họa đó cùng trẻ và mang tới lớp.

*Cách chơi :

– Cách 1 : Trao đổi với trẻ về những thực phẩm trẻ ăn hàng ngày và giá trị dinh dưỡng của chúng. Nói cho trẻ biết cần ăn đủ 5 thành phần loại nhóm thực phẩm mới đảm bảo dinh dưỡng để lớn lên thông minh và khỏe mạnh. Cho trẻ quan sát tháp dinh dưỡng mà cô giáo đã làm sẵn từ giấy khổ lớn hoặc bìa cứng. Yêu cầu trẻ tìm các bức tranh, hình in nằm trong 5 nhóm thức ăn cắt và dán đúng vị trí trên tháp dinh dưỡng lớn chung của cả lớp bằng giấy khổ lớn hoặc bằng hộp các tông lớn.

  • Cách 2 : Trao đổi với trẻ về những thực phẩm trẻ ăn hàng ngày và giá trị dinh dưỡng của chúng. Nói cho trẻ biết cần ăn đủ 5 thành phần loại nhóm thực phẩm mới đảm bảo dinh dưỡng để lớn lên thông minh và khỏe mạnh. Cho trẻ quan sát tháp dinh dưỡng mà cô giáo đã làm sẵn từ giấy khổ lớn hoặc bìa cứng. Yêu cầu trẻ tìm các bức tranh, hình in nằm trong 5 nhóm thức ăn cắt và dán đúng vị trí trên tháp dinh dưỡng của riêng mình trên giấy A4. Hỏi trẻ về kết quả.

1.11. Trò chơi 11 : Bánh xe mưa

* Mục đích :

– Củng cố sự nhận biết của trẻ về vòng quay luân chuyển của mưa.

 – Phát triển khả năng suy luận; bước đầu phát triển tư duy logic cho trẻ.

* Chuẩn bị : Các mảnh rời mô tả các giai đoạn để tạo ra mưa : trời nắng, nước bốc hơi, tích tụ thành đám mây mỏng màu xám trắng , đám mây đen, nước nhỏ xuống từ những đám mây đen. Trò chơi được thực hiện sau khi cho trẻ thực hiện các thí nghiệm về mưa và quan sát trời mưa.

* Cách chơi : Trên cơ sở làm thí nghiệm tạo mưa, cô cho trẻ miêu tả lại các giai đoạn hình thành mưa và cùng cô thể hiện trên các bức tranh hình làm bằng bìa cứng. Sau đó cho trẻ ghép lại làm thành bánh xe mưa. Hoặc cô xếp các bức tranh không theo trật tự các giai đoạn tạo thành mưa và yêu cầu trẻ xếp lại cho đúng.

 1.12. Trò chơi 12: Hãy kể nhanh

 * Mục đích :

– Củng cố hiểu biết của trẻ về thái độ và những việc con người cần làm đối với cây cối.

– Rèn phản xạ nhanh.

– Cung cấp hiểu biết của trẻ về vấn đề trên ở mọi lúc, mọi nơi, trong một tình huống.

* Chuẩn bị: Một quả bóng.

*Cách chơi: Cô và trẻ ngồi theo vòng tròn.Cô nói hiện tượng và ném bóng đến trẻ nào trẻ đó nói hành động,công việc và thái độ cần thể hiện đối với cây cối. Ví dụ, cô nói: Cây héo – trẻ nói: Tưới nước cho cây; cô nói: Cây có sâu bọ phá hoại – trẻ nói: Bắt sâu,… Tương tự như vậy, trò chơi có thể sử dụng để củng cố hiểu biết của trẻ về lợi ích, sản phẩm được làm ra từ cây cối, hoa.quả

  • Biện pháp 2 : Thiết kế và sưu tầm các thí nghiệm :

2.1. Thí nghiệm 1: Trồng cây bằng gì.

* Mục đích: Giúp trẻ hiểu được ngoài cách trồng cây bằng hạt, ngưởi ta có thể trồng cây bằng cành, bằng lá hoặc bằng củ.

 * Chuẩn bị : 4 chậu hoặc một khoảng đất đủ độ ẩm tơi xốp để trồng cây, một số dây khoai lang, cành cây trạng nguyên, một số lá bỏng, một số cành, lá cây khác mà không thể trồng bằng cành, bằng lá được.

* Cách tiến hành: Cô tổ chức cho trẻ chơi “Gieo hạt nảy mầm”. Sau đó, cô nêu câu hỏi : “Ngoài cách trồng cây bằng hạt, ta có thể trồng cây bằng cách nào?”, trẻ trả lời. Tiếp treo cô sẽ nói với trẻ về thí nghiệm “Chúng ta sẽ đem trồng 1số cành cây khoai lang, cây trạng nguyên, lá bỏng… và thử xem điều gì sẽ xảy ra nhé?”. Cô cho trẻ dự đoán chậu nào có các mầm cây mọc lên. Hàng ngày, cô cùng trẻ tưới nước đủ độ ẩm để cây phát triển, cho trẻ thay đổi diễn ra trong các chậu cây trồng. Khi thí nghiệm kết thúc, cô trò chuyện với trẻ về điều xảy ra và rút ra kết luận : ngoài cách trồng cây bằng hạt, ta có thể trồng cây bằng cành hoặc bằng lá, song không phải cây nào cũng trồng được bằng cành hoặc bằng lá và chỉ cho trẻ thấy rễ và mầm sinh ra từ mắt của cành hoặc các mép lá. Lưu ý : Với những loại cây trồng bằng lá, thì chỉ cần phủ một lớp đất mỏng lên lá.

2.2. Thí nghiệm 2: Cây hút nước như thế nào?

* Mục đích : Giúp trẻ nhận biết được sự hút nước của cây.

* Chuẩn bị : Một lọ đựng nước trong Một lọ đựng nước có pha màu đỏ. Hai cành cây hoặc hoa (cúc trắng, huệ, cây cần tây)

* Cách tiến hành : Cô tổ chức chơi trò chơi nhẹ nhàng, gây hứng thú cho trẻ. Sau đó, cô mang ra 2 lọ nước (1lọ đựng nước trong, 1lọ đựng nước đỏ) và 2 cành hoa cúc, huệ hoặc cần tây. Cô nêu câu hỏi để trẻ suy nghĩ và dự đoán kết quả xảy ra khi cô cắm 2 cành cây vào 2 lọ nước này.

– Cắm 2 cành cây (hoa) vào 2 lọ nước.

– Sau 3 – 4 ngày cho trẻ quan sát, so sánh và nhận xét kết quả.

– Kết luận: Cành cây (hoa) cắm trong lọ nước màu, hoa và gân lá chuyển sang màu hồng. Vì cây hút nước và nước màu đã được thân cây, cành cây vận chuyển lên nhuộm màu cho lá và hoa.

2.3. Thí nghiệm 3: Nước chảy theo chiều nào

* Mục đích : Giúp trẻ hiểu được chiều chuyển động của nước.

* Chuẩn bị : 1 bình nước, 1 cái máng (bằng tre, nứa, nhựa…), 1 cái chậu

* Cách tiến hành: Cô đặt câu hỏi cho trẻ thảo luận, suy nghĩ và bàn tán xem nước có chuyển động không? Nước chảy theo chiều nào? . Cô cùng trẻ làm thí nghiệm: để 1 đầu ống máng cao, một đầu thấp và rót nước vào giữa máng: cho trẻ quan sát và nhận xét: nước chảy theo chiều nào?

2.4. Thí nghiệm 4: Nước đá biến đi đâu?

* Mục đích : Giúp trẻ hiểu được sự tan ra của nước khi nhiệt độ ấm lên (quá trình đá tan thành nước).

* Chuẩn bị : 1cục nước đá (bằng quả trứng vịt); hai cốc nước ấm (đổ vơi khoảng nửa cốc từ 40ºC – 50ºC)

* Cách tiến hành : Cho trẻ quan sát cục đá để trong khay đá.

– Cho trẻ sờ tay và thành 2 cốc nước ấm và để trẻ nhận xét xem thành cốc như thế nào.

– Bỏ cục đá vào một trong hai cốc nước. Cho trẻ quan sát hiện tượng : cục nước đá nhỏ dần rồi biến mất. Sau đó cho trẻ sờ tay vào hai thành cốc, so sánh, nhận xét xem cốc nào lạnh hơn. Nước ở cốc nào nhiều hơn? Vì sao? Cuối cùng đi đến kết luận:

+ Nước đá biến đi đâu? (Nước đá tan thành nước)

+ Tại sao có một cốc đầy hơn? Một cốc vơi hơn? (Cốc đầy là do nước đá tan ra).

+ Tại sao sờ tay vào hai cốc thì có một cốc lạnh hơn, cốc ấm hơn? (Cốc lạnh hơn là do nước đá tan ra làm giảm nhiệt độ trong cốc).

2.5. Thí nghiệm 5 : Tạo cầu vồng

* Mục đích : Giúp trẻ hiểu được hiện tượng cầu vồng sau cơn mưa. * Chuẩn bị : Bình phun nước có chứa đầy nước hoặc một cốc thủy tinh đựng nước và một tờ giấy trắng.

* Cách tiến hành: Cô đặt câu hỏi để trẻ chia sẻ kinh nghiệm : Sau cơn mưa lại có nắng, chúng ta thường thấy hiện tượng gì? Cô cùng trẻ làm thí nghiệm:

Cách 1: Đứng quay lưng về phía mặt trời, phun nước từ vòi phun hoặc bình phun ở độ nghiêng 45º, dùng tay quạt nhẹ để những tia nước vỡ ra, ta sẽ quan sát thấy hiện tượng cầu vồng. (Lưu ý: xem cầu vồng phải đứng ngược hướng ánh sáng)

Cách 2: Vào ngày nắng, có thể làm lấy cầu vồng bằng 1cốc thủy tinh đựng nước. Đặt cốc nước lên tờ giấy trắng sao cho cốc bị chiếu nắng còn giấy ở trong bóng râm. Ánh nắng xuyên qua cốc và phân làm bảy màu tạo nên cầu vồng. Cho trẻ quan sát, nhận xét, cô giải thích cho trẻ hiểu : cầu vồng thường xuất hiện sau cơn mưa mùa hè. Do sau cơn mưa, trong không khí chứa nhiều hạt nước nhỏ li ti, ánh sáng chiếu vào những hạt nước nhỏ li ti đó và tạo nên hiện tượng cầu vồng.

2.6. Thí nghiệm 6: Vì sao ngọn nến tắt.

* Mục đích : Trẻ nhận biết không khí làm cho nến cháy, không có không khí thì nến sẽ tắt.

* Chuẩn bị : 2 cái cốc, hai cây nến, 1 tờ giấy bạc đã đục lỗ và một tờ giấy bạc còn nguyên.

* Cách tiến hành: Đặt 2 cây nến vào trong 2 cốc. Đốt nến cho trẻ thấy hai cây nến cùng cháy. Cho trẻ quan sát hai tờ giấy bạc đã chuẩn bị sẵn và cho trẻ đoán xem điều gì sẽ xảy ra khi dùng 2 tờ giấy bạc đó bịt lên 2 cốc nến đang cháy. Cô dùng 2 tờ giấy bạc bịt miệng 2 cốc nến. Cho trẻ quan sát và nhận xét hiện tượng xảy ra (một ngọn nến tắt, một ngọn nến tiếp tục cháy). Cho trẻ thảo luận: Vì sao một ngọn nến tắt ? Cô có thể giải thích cho trẻ : Cốc có nến đang cháy là cốc được bịt tờ giấy bạc đục lỗ, không khí vẫn lọt được và bên trong cốc. Cốc có nến bị tắt bị bịt bằng miếng giấy bạc kín, không khí không lọt được vào bên trong nên cây nến bị tắt.

2.7. Thí nghiệm 7 : Sự biến đổi của màu sắc

* Mục đích : Trẻ biết sự kết hợp của hai màu cơ bản để tạo thành một màu mới. Trau dồi óc quan sát và khả năng suy luận

* Chuẩn bị : Ba hộp màu cơ bản, khay màu, bút lông, khăn lau bút. Các mẩu vải vụn, khăn mặt màu trắng, vỏ chai nhựa…

* Cách tiến hành : Đặt ba hộp màu cơ bản ở nơi trẻ có thể lấy được. Mỗi trẻ một khay màu và bút lông Cho trẻ về từng nhóm phán đoán về sự kết hợp của hai màu cơ bản và màu mới tạo thành. Cho trẻ thực hành pha màu tạo màu mới và nêu kết quả. Trẻ ứng dụng các kiến thức đó vào nhuộm vải, vẽ tranh, chơi với nước.

2.8. Thí nghiệm 8 : Sự chuyển động và âm thanh

* Mục đích : Trau dồi kĩ năng quan sát, sự nhạy cảm của các giác quan và khả năng dự đoán. Kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của trẻ

* Chuẩn bị : Thước kẻ, dây, bóng bay đã thổi, chuông nhỏ, đài catxet nối và loa, vỏ ốc biển.

* Cách tiến hành : Cô trao đổi với trẻ cách mà trẻ tạo ra âm thanh bằng cơ thể mình: nói, giậm chân, vỗ tay… Cho trẻ áp tai xuống sàn nhà, một trẻ khác dậm chân mạnh để thấy sàn nhà rung chuyển mạnh nhẹ tùy thuộc cách mà trẻ giậm chân. Bật đài và cho trẻ sờ vào loa, trẻ sẽ thấy loa rung và phát ra âm thanh ; khi loa hết rung (đài tắt) thì âm thanh cũng sẽ hết. Cô rắc những hạt muối lên bàn và cho trẻ áp tai xuống bàn, trẻ khác vỗ tay lên bàn lúc to, lúc nhỏ rồi trẻ nhận xét (Những hạt muối sẽ nảy lên theo nhịp vỗ và âm thanh càng lớn, mặt bàn càng rung mạnh). Cho trẻ khám phá âm thanh của chuông, thước, tháo hơi trong quả bóng, nghe ốc biển. Cho trẻ suy đoán và lí giải theo cách hiểu của trẻ, Cô giải thích cho trẻ hiểu : Âm thanh được tạo ra là nhờ có sự chuyển động (rung động). Chuyển động (rung động) càng to thì âm thanh càng lớn.

  1. Hiệu quả:

Với việc ứng dụng các trò chơi, thí nghiệm trong hoạt động khám phá, tôi thấy:

  • Các trò chơi, thí nghiệm đã gây được hứng thú, thu hút trẻ vào các hoạt động mà giáo viên tổ chức.
  • Trẻ chú ý hơn
  • Trẻ nắm được kiến thức
  • Thích nói lên ý kiến của mình
  • Các trò chơi đã cụ thể hóa, trực quan hóa các kiến thức khoa học trừu tượng, giúp trẻ tiếp thu dễ dàng hơn
  • Tạo cảm hứng cho giáo viên thiết kế thêm những trò chơi, thí nghiệm mới phục vụ cho việc giảng dạy ngày một tốt hơn.
  1. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

*Từ những kết quả nghiên cứu trên cơ sở tôi rút ra kết luận sau:

  • Việc ứng dụng các trò chơi, thí nghiệm trong hoạt động khám phá cho trẻ là rất cần thiết. Nhằm giúp trẻ tích lũy được kiến thức, kĩ năng về tự nhiên và xã hội, giúp trẻ được phát triển về các mặt: Đức – Trí – Thể – Mĩ – Lao động. Thông qua việc tổ chức cho trẻ được hoạt động khám phá, trẻ sẽ được phát triển toàn diện các mặt, nhân cách được hình thành và phát triển.
  • Việc làm này không chỉ có ý nghĩa lớn lao đối với các nhà nghiên cứu mà đối với các trường Mầm non phải đặc biệt là các giáo viên Mầm non cần nắm vững những nội dung chương trình và thường xuyên mở rộng nội dung chương trình.

* Qua việc nghiên cứu đề tài trên, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau:

– Các trò chơi được thiết kế rất dễ thực hiện, việc chuẩn bị dụng cụ đơn giản, ít tốn kém, đảm bảo vệ sinh, an toàn cho trẻ.

– Các trò chơi này có tính mở, hấp dẫn, kích thích đươc sự tìm tòi, khám phá của trẻ, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, các thao tác tư duy như: so sánh, phân tích- tổng hợp, óc phán đoán và khả năng suy luận của trẻ cũng được phát triển. Qua các hoạt động này trẻ được trải nghiệm và tự phát hiện ra các đặc điểm, mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng xung quanh, tiếp thu các kiến thức khoa học dễ dàng hơn.

*Khả năng ứng dụng:

Các trò chơi, thí nghiệm còn có thể dùng trong các tiết KPKH, LQMTXQ, HDNT, LQVT,…

*Một số ý kiến đề xuất:

Qua việc nghiên cứu và tổ chức các trò chơi, thí nghiệm cho trẻ 5-6 tuổi khám phá, tôi có 1 số ý kiến đề xuất sau:

  • Cho phép được tổ chức, thí nghiệm đã được nghiên cứu trong phạm vi trường
  • Cần tạo điều kiện cho giáo viên trong trường tham gia kiến tập, thăm quan, dự các lớp tập huấn để giáo viên có cơ hội học hỏi thêm kinh nghiệm tổ chức các hoạt động học tập và vui chơi cho trẻ.
  • Tăng cường đầu tư kinh phí, thời gian, đồng thời hướng dẫn, động viên, khuyến khích giáo viên tích cực nghiên cứu, sáng tạo ra các hoạt động mới, hấp dẫn trẻ và có hiệu quả để phục vụ cho nội dung giảng dạy, để bài giảng thêm sinh động.

PHỤ LỤC HÌNH ẢNH

Giờ học Toán của cô và trẻ lớp Lá 3

Trẻ gắn hoa cho cây

Trẻ học theo nhóm

Trò chơi “Tạo nhóm đối tượng có số lượng 4”

Trò chơi “ Tìm lá cho cây”

Trẻ lao động nhặt lá cây trong giờ HDNT

Cháu thích thú khi được làm thử nghiệm

Cô và trẻ làm thử nghiệm:”Núi lửa phun trào” trong giờ HDNT

tn1

 MỤC LỤC

A/ Phần mở đầu

I/ Lý do chọn đề tài……………………………………………..…..trang 1-2

II/ Phạm vi và đối tượng nghiên cứu………………………….…….trang 2

III/ Mục đích nghiên cứu……………………………………..……..trang 2

IV/ Điểm mới trong kết quả nghiên cứu …………………..……….trang 2

B/ Phần nội dung

I/ Cơ sở lí luận của đề tài……………………………………………trang 2

1.Khái niệm……………………………………………………….trang 2-3

2.Đặc điểm của đồ dùng dạy học LQVT……………………..……trang 3

II/ Thực trạng của vấn đề…………………………………………trang 3-4

III/ Các biện pháp………………………………………………..trang 4-15

IV/ Hiệu quả……………………………………………………..….trang 15

C/ Kết luận và kiến nghị………………………………………..…trang 15-16

Một số hình ảnh minh họa…………………………………………..trang 17-20